Con số này vượt ngưỡng an toàn về tỷ số giới tính khi sinh (GTKS): 103-107. Số liệu thống kê trong các năm gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ số này luôn dao động trong khoảng 104 -109 trong các năm từ 2001 đến 2005 nhưng từ năm 2006 đến nay, tỷ số này luôn ở mức trên 110. Tỷ số GTKS tăng sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với dân số nói riêng và các vấn đề kinh tế – xã hội nói chung.
Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam, 1999-2009. |
Những con số biết nói
Tác động đầu tiên của mất cân bằng GTKS là tác động vào tỷ số giới tính (của cả dân số). Tỷ số giới tính được định nghĩa là số lượng nam giới trên 100 nữ giới. Tỷ số này ở nước ta đang tăng dần qua các kỳ Tổng điều tra.
Tỷ số giới tính phụ thuộc vào: (1) Tỷ số GTKS, (2) Tỷ suất chết của nam, nữ theo các nhóm tuổi khác nhau, (3) Di cư quốc tế. Thông thường chỉ số di cư thuần quốc tế (nhập cư – xuất cư) của nước ta có tác động không đáng kể đến chỉ số giới tính.
Kết quả điều tra DHS, 2002 cho thấy không có sự khác biệt lớn giữa tỷ suất chết của trẻ em nam so với trẻ em nữ ở nhóm tuổi dưới 5:
Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi (ASDR) phân theo nam (M), nữ (F), năm 2008. |
Mục tiêu của chúng ta đặt ra là đến năm 2020, tỷ số GTKS sẽ được khống chế ở mức 115. Sử dụng chương trình dự báo dân số Spectrum version 3.54 (dự báo ở mức trung bình), cho ta kết quả đến năm 2020 nước ta có khoảng gần 700 ngàn đàn ông trong độ tuổi 15-49 “dư thừa” và đến năm 2050 là khoảng gần 3 triệu. Và kết quả tỷ số GTKS được dự báo qua các năm đến 2050 như sau:
Mất cân bằng GTKS tại Việt Nam sẽ có những tác động tiêu cực đến các chỉ số nhân khẩu học của dân số, đến hôn nhân và gia đình, đến trật tự trị an xã hội, ngay cả một số ngành nghề vốn thích hợp với phụ nữ sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu lao động như giáo viên mầm non, tiểu học, y tá, may mặc,… Vấn đề đặt ra hiện nay là Chính phủ, các tổ chức xã hội và mỗi cá nhân phải cùng nhau thực hiện các giải pháp nhằm khống chế mức tăng của GTKS. |
Khi kết hôn với người nước ngoài mà không có tình yêu, không có sự tìm hiểu nhau kỹ càng thì hôn nhân sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức như sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo, thói quen sinh hoạt, quan niệm… Những điều đó sẽ dẫn đến sự xung đột và đe doạ đến hạnh phúc gia đình, làm gia tăng các vụ bạo hành giới (thể chất, tinh thần, tình dục) mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ; tăng cao nguy cơ số vụ ly hôn.
Nam giới muộn hoặc không kết hôn được sẽ có thể phải đối mặt với các rắc rối về tâm lý, tinh thần, tăng nguy cơ bệnh tật khi mà các nhu cầu tâm lý, tình cảm, sinh lý không được đáp ứng. Điều đó sẽ làm gia tăng các tệ nạn xã hội, đặc biệt là mại dâm nữ, nam; các nguy cơ về lây nhiễm HIV/AIDS; tội phạm, tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và ngay cả nạn nhân là nam giới vì thế cũng gia tăng.
Theo thống kê của Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an), giai đoạn 1998 – 2006, có 5.746 phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài và 665 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán trong nước, chưa kể đến con số 7.940 phụ nữ và trẻ em nghi ngờ bị buôn bán. Từ năm 2005 đến tháng 6-2008, có 2.800 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán. Hầu hết các vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra tại các tuyến biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Cambodia, Việt Nam – Lào. Riêng 6 tháng đầu năm 2009 đã có 362 trường hợp, trong đó có cả trẻ em sơ sinh .
Tỷ lệ % số vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam với các nước (từ 2005-6/2008). |
[1] “Factors determining the sex ratio at birth” Ingrid Waldron – Leidy Laboratory, Department of Biology, University of Pennsylvania
[1] Tổng Điều tra DS và Nhà ở 1999, 2009; Điều tra Biến động Dân số hàng năm – TCTK
[1]Vietnam Demographic and Health Survey, 2002 – Measuredhs
[1] Lectures of Sr. Prof. F.Ram – Director of International Institute for Population Sciences, Mumbai, India
[1] “Recent change in the SRB in Vietnam: A review of evidence” – Dr. Christophe Z. Guilmoto- UNFPA, 2009
[1] Dự thảo Chiến lược Dân số-SKSS đến năm 2020, www.gopfp.gov.vn
[1] Dự báo GTKS năm 2050 là 120
[1] Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, TCTK
[1]“Abnormal sex ratios in human populations: causes and consequences‟ Hesketh and Xing, 2006
[1] Báo cáo Đề án 3, Chương trình 130/CP năm 2010 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
[1] Wikipedia Việtnam- Mại dâm
[1] “Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em” – Đoàn Hiền. Thông tin Pháp luật Dân sự, 10/2009