SKĐS -Ở các nước có tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh cao, yếu tố thúc đẩy thay đổi hành vi lựa chọn giới tính khi sinh là thực thi vấn đề bình đẳng giới trong xã hội, nâng cao vai trò của phụ nữ, từ đó thay đổi tâm lý thích con trai, hướng tới xã hội con nào cũng đều được coi trọng.
Một trong những thách thức dân số của Việt Nam là mất cân bằng giới tính khi sinh, tình trạng này xuất hiện từ đầu thế kỷ 21 và ngày càng gia tăng. Trước đây, tình trạng này xuất hiện ở một số vùng địa lý, nhóm dân cư, nhưng ngày nay đã lan rộng ra cả nước với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam hiện nay khoảng 111,5 bé trai trên 100 bé gái, đứng thứ 3 châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Mất cân bằng giới tính khi sinh trước đây xảy ra chủ yếu ở thành thị, vùng đồng bằng Bắc Bộ thì nay lan rộng ra hầu khắp cả nước.
Phụ nữ càng có trình độ học vấn càng có xu hướng lựa chọn giới tính khi sinh. Ảnh TL
Ông Đinh Huy Dương, Vụ trưởng Vụ Truyền thông- giáo dục, Tổng cục Dân số -KHHGĐ, Bộ Y tế cho biết, lựa chọn giới tính thai nhi xuất hiện ở cả những vùng nông thôn, những nơi mà điều kiện kinh tế xã hội không phát triển, khó tiếp cận những dịch vụ để lựa chọn giới tính như siêu âm, phá thai… Hiện tượng lựa chọn giới tính khi sinh đã xuất hiện ở cả những vùng khó khăn, ở nông thôn.
Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên, tức là các cặp vợ chồng khi sinh người con đầu tiên đã nghĩ đến việc lựa chọn giới tính cho con. Họ đã tìm đến các kỹ thuật công nghệ hiện đại để biết trước giới tính của con mình.
Theo Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), càng những bà mẹ có học cao, hiểu biết rộng thì càng có xu hướng lựa chọn giới tính khi sinh. Một khảo sát của UNFPA, tỷ số giới tính khi sinh tăng lên cùng với số năm đi học của người mẹ. Các chuyên gia dân số lý giải rằng, đó là do người mẹ càng được học nhiều, họ càng có nhiều thông tin, tiếp cận các dịch vụ lựa chọn giới tính khi sinh nhiều hơn.
Mỗi năm có khoảng 45.900 bé gái không được sinh ra tại Việt Nam và tình trạng lựa chọn giới tính khi sinh là một hành vi bạo lực giới trên cơ sở định kiến giới cần có sự can thiệp của pháp luật.
Ông Đinh Huy Dương nói: “Có 3 nhóm giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề lựa chọn giới tính khi sinh là truyền thông vận động để thay đổi nhận thức của người dân về vấn đề lựa chọn giới tính thai nhi trên cơ sở định kiến giới, về vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Nhóm giải pháp thứ 2 là thực thi pháp luật, xây dựng các quy định, luật để hạn chế lựa chọn giới tính thai nhi. Nhóm giải pháp thứ 3 là tạo điều kiện cho phụ nữ và trẻ em gái có vị thế cao hơn trong xã hội, đặc biệt là vấn đề kinh tế xã hội và việc làm”.
Làm gì để chấm dứt lựa chọn giới tính khi sinh?
Vụ trưởng Vụ Truyền thông- giáo dục, Tổng cục Dân số -KHHGĐ, Bộ Y tế đã dẫn ví dụ của Hàn Quốc cho rằng, khi kinh tế xã hội Hàn Quốc phát triển, người dân cũng dần thay đổi quan niệm về lựa chọn giới tính khi sinh. Người phụ nữ tự chủ về kinh tế, có cái nhìn hiện đại hơn về quyền của phụ nữ cũng như về bình đẳng giới, việc chấm dứt lựa chọn giới tính khi sinh sẽ được thúc đẩy nhanh hơn. Thế hệ trẻ dần có quan điểm hiện đại hơn về vấn đề này, do đó họ sẽ không đi đến lựa chọn giới tính của thai nhi.
Truyền thông là một trong những chiến lược nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề về bất bình đẳng giới tại Việt Nam. Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt Chương trình Truyền thông dân số đến năm 2030 để nhằm truyền thông nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp; bộ, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương để huy động sự tham gia và cam kết với công tác dân số thông qua việc chỉ đạo, đầu tư nguồn lực, lồng ghép các vấn đề dân số trong chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; phát huy lợi thế của cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; nâng cao chất lượng dân số; duy trì vững chắc mức sinh thay thế; phân bố dân cư hợp lý; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên góp phần phát triển nhanh, bền vững đất nước.