Dân số Việt Nam đạt 90 triệu người: Thành công của chính sách dân số

0
576

GiadinhNet – Theo số liệu công bố chính thức của Tổng cục Thống kê, vào ngày 1/11/2013 Việt Nam sẽ đón chào công dân thứ 90 triệu chào đời. Đây cũng là mốc đánh giá Việt Nam đã thực hiện vượt mức chỉ tiêu Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020. Quy mô dân số không vượt quá 93 triệu người vào năm 2015 và 98 triệu người vào năm 2020.

Dân số Việt Nam đạt 90 triệu người: Thành công của chính sách dân số 1

Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực DS-KHHGĐ. Ảnh: PV

 
Giảm được gần 1,5 triệu người
Với việc đạt 90 triệu người vào tháng 11/2013, thì dân số trung bình của năm 2015 sẽ vào khoảng dưới 91,5 triệu người. Như vậy chúng ta đã xuất sắc đạt mục tiêu đề ra với việc giảm được gần 1,5 triệu người sinh thêm. Quy mô dân số Việt Nam đạt 90 triệu người, trong đó dân số thành thị chiếm 32,3% và dân số nam là 49,5% tổng dân số.
Vùng có quy mô dân số lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng chiếm tỷ lệ 22,8% trong tổng số dân, trong đó diện tích đất chỉ có 6,9%. Tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chiếm 21,8%, diện tích đất chiếm lớn nhất với 29,0%. Tây Nguyên là vùng có số dân ít nhất với tỷ lệ 6,0%, nhưng diện tích đất chiếm 16,5%.
Dân số là bài toán tổng thể của phát triển kinh tế-xã hội. Theo lôgic của vấn đề là phải đi từ dân số, lao động, việc làm, an sinh xã hội rồi mới tiếp đến các vấn đề khác. Xét chung về nội dung dân số, đây là vấn đề chi phối toàn bộ các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của một đất nước. Chỉ nói riêng về kinh tế- xã hội thì dân số là bài toán tổng thể, “bài toán mẹ” của tất cả các bài toán chi tiết, của tất cả “bài toán con”.
Từ năm 1993, với việc thực hiện chính sách dân số của Nghị quyết TW 4 khóa 7, tỷ lệ phát triển dân số Việt Nam giảm nhiều và mức độ tăng quy mô dân số cũng được cải thiện rõ rệt, số năm dân số tăng gấp đôi là khoảng 50 năm. Đặc biệt hiện nay khoảng 70 năm dân số mới tăng gấp đôi, góp phần cải thiện tình hình phát triển kinh tế-xã hội và an sinh xã hội.   
Dân số Việt Nam 90 triệu người nhưng đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”. Giai đoạn này sẽ kéo dài trong khoảng 30-35 năm. Cơ cấu dân số vàng tức là ít nhất có 2 người trong tuổi lao động “nuôi” 1 người trong độ tuổi phụ thuộc, như vậy có đông lực lượng lao động, ổn định nguồn nhân lực, chăm sóc được người cao tuổi và trẻ em, Quỹ bảo hiểm xã hội cân bằng được.
 
Tăng cường công tác chăm sóc SKSS/KHHGĐ
Bộ Y tế và các bộ, ngành khi xây dựng Luật Dân số, cần hoạch định các chính sách, giải pháp để phát huy hiệu quả giai đoạn quý báu này. Hiện nay tuổi thọ bình quân dân số Việt Nam là 73 tuổi. Trong vòng 50 năm, tuổi thọ người Việt Nam đã tăng thêm 33 tuổi. Chúng ta nói “già hóa dân số” là nói theo thuật ngữ nhân khẩu học quốc tế, còn ở Việt Nam là sống lâu, phong tục tập quán chúc Tết cũng chúc sống lâu trăm tuổi, sống lâu là vui vẻ, hạnh phúc. Đây là một thành tựu rất quan trọng, nhưng cũng là thách thức mới cho chính sách an sinh người cao tuổi…
Tại Việt Nam, tỷ suất chết bà mẹ đã giảm từ 85 trên một trăm nghìn trẻ sinh ra sống (năm 2003) xuống còn 68 trên một trăm nghìn trẻ sinh ra sống (năm 2010). Công tác chăm sóc SKSS/KHHGĐ được cải thiện rõ rệt.
Chúng ta đạt được thành tích như vậy, là sự nỗ lực của Đảng, chính quyền, nhân dân và sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại tại thời điểm 1/4/2012 đạt mức 66,6%. Từ 2006 đến năm 2012, tỷ lệ khám thai ít nhất 1 lần đối với lần sinh cuối của phụ nữ trên toàn quốc đã tăng thêm 5,1 điểm phần trăm.
Việc giảm sinh, giảm số trẻ trong độ tuổi đi học đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng và bình đẳng giới trong  giáo dục. Mức sinh giảm nên tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học phổ thông giảm. Kết quả là, mặc dù tỷ lệ đi học theo độ tuổi tăng lên nhưng số học sinh phổ thông giảm ở tất cả các cấp. Việc giảm hàng triệu học sinh phổ thông đã tháo gỡ áp lực dân số lên ngành giáo dục, tạo nhiều điều kiện để tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng giáo dục. Mặt khác, do ít con nên các gia đình có khả năng cho cả con trai và con gái đi học. Do đó, tỷ lệ nữ đi học ngày càng tăng lên và hiện đã ở mức ngang bằng với nam giới. Bình đẳng trong giáo dục là cơ sở vững chắc để phụ nữ nâng cao năng lực và thực hiện bình đẳng toàn diện và đầy đủ.
 
Nói đến công tác dân số là nói đến gia đình hạnh phúc, đất nước phát triển vững bền
Quy mô dân số 90 triệu người, với lợi thế chuyển đổi cơ cấu dân số là thành tựu chỉ có duy nhất một lần trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
Thành tựu dân số Việt Nam đạt 90 triệu người vào năm 2013 là một vận hội lớn của đất nước trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội. Sẽ biết bao khó khăn nảy sinh nếu dân số Việt Nam tiếp tục phát triển như giai đoạn 1960-1980 thì dân số Việt Nam hiện nay sẽ khoảng 120 triệu người. Sắp tới chúng ta sẽ xây dựng Luật Dân số, trên cơ sở bài học của 10 năm thực hiện Pháp lệnh Dân số, 20 năm thực hiện Nghị quyết TW 4 về chính sách DS-KHHGĐ và hơn 50 năm thực hiện chương trình DS-KHHGĐ Việt Nam; tiếp thu các bài học kinh nghiệm của quốc tế, những thành công và không thành công về công tác dân số, trên cơ sở thực tiễn phát triển về kinh tế – xã hội của đất nước, những dự báo về môi trường, về văn hóa, phong tục, tập quán, thói quen của người dân cũng như những thành tựu về khoa học công nghệ… Làm thế nào để khi nói đến công tác dân số là nói đến gia đình hạnh phúc, đất nước phát triển bền vững.
 

TS. Nguyễn Quốc Anh