An sinh tốt sẽ giảm tâm lý “khát” con trai

0
164

GiadinhNet – “Nếu Việt Nam có được hệ thống an sinh tốt, người già không còn tâm lý mong đợi có con trai để nương tựa lúc tuổi già thì việc mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dần mất đi” , bà Ritsu Nacken, Quyền Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam chia sẻ quan điểm của mình về các giải pháp nhằm ngăn ngừa tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam.

Người già sẽ không còn tâm lý mong đợi có con trai để nương tựa khi được chăm sóc tốt bởi hệ thống an sinh. Ảnh: Chí Cường
Người già sẽ không còn tâm lý mong đợi có con trai để nương tựa khi được chăm sóc tốt bởi hệ thống an sinh. Ảnh: Chí Cường

Tận dụng cơ hội “vàng ròng trong dân số”

Theo số liệu thống kê, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp hơn 10 lần trong vòng hơn 20 năm qua, từ 140 USD/người (năm 1992) lên 1.540 USD/người (năm 2012), trong đó có sự góp sức quan trọng của việc tránh sinh được 20,8 triệu trường hợp.

Trong cuộc làm việc với Ban Kinh tế Trung ương gần đây, bà Ritsu Nacken nhấn mạnh, cơ cấu “dân số vàng” cũng là “vàng ròng trong dân số”. Tận dụng cơ hội này là rất quan trọng, nhất là nó chỉ kéo dài trong vòng mấy chục năm nữa. Cùng với đó là bài toán giải quyết cân bằng giới tính, một vấn đề mà nhiều nước, trong đó có một số nước ở khu vực châu Á như Trung Quốc cũng đang vướng mắc.

Theo bà Ritsu, đây là thời điểm rất quan trọng để Việt Nam chuyển hướng các chính sách của mình về dân số nhằm đạt được những kết quả tích cực hơn nữa. Quan sát về tình hình dân số ở Việt Nam, bà Ritsu thấy Việt Nam đang đối mặt với tình trạng “già hóa dân số” rất nhanh, hơn cả bên châu Âu, cùng với đó là tình trạng tỷ lệ sinh thấp. Việt Nam đang bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” và đây chính là thời kỳ phát triển chưa từng có của đất nước.

Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, Việt Nam đã sớm quan tâm đến vấn đề dân số và coi trọng việc hoạch định chính sách dân số. Từ năm 1961, khi dân số Việt Nam đang ở khoảng 31 triệu người, Việt Nam đã ban hành các chính sách liên quan đến dân số như chính thức tiến hành chương trình DS-KHHGĐ. Từ năm 2011 đến nay, Việt Nam đã chuyển hướng chính sách từ “kiểm soát quy mô dân số” sang “nâng cao chất lượng dân số”. Nội dung chính sách về quy mô dân số chuyển từ “chủ động kiểm soát” sang “chủ động điều chỉnh”; Tốc độ tăng dân số từ “cản trở” đã trở thành “động lực” cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Chính sách dân số bao gồm cả “cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi thế của cơ cấu “dân số vàng” và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh”.

Dân số Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi

Mất cân bằng giới tính khi sinh đang là một thử thách rất lớn đối với những nước đang gặp phải vấn đề này. Các giải pháp ngăn cấm không mang lại kết quả như mong muốn. “Nếu Việt Nam có được hệ thống an sinh tốt, người già không còn tâm lý mong đợi có con trai để nương tựa lúc tuổi già thì việc mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dần mất đi”, bà Ritsu nói.

Dân số Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi nhân khẩu học chưa từng có trong lịch sử. Đó là giai đoạn chuyển từ mức sinh cao sang mức sinh thấp; Từ mô hình sinh sớm sang mô hình sinh muộn; Từ mức chết cao sang mức chết thấp, nhất là mức chết trẻ em; Từ cơ cấu “dân số trẻ” sang giai đoạn “già hóa dân số” và chuyển sang “dân số già”; Từ cơ cấu “dân số phụ thuộc” sang cơ cấu “dân số vàng”… Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ với cường độ lớn và số lượng người di cư ngày càng đông. Vì vậy, còn nhiều những thách thức và những vấn đề mới nảy sinh trong công tác dân số có ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước cần phải quan tâm giải quyết.

Vì dân số liên quan mật thiết đến kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa, vấn đề dân số cần phải được giải quyết ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, xã hội, chứ không chỉ ở lĩnh vực y tế. Kinh nghiệm thành công ở các nước cho thấy: Chỉ khi có một Ủy ban dân số dưới sự chỉ đạo của Chính phủ thì vấn đề dân số mới được được lồng ghép đầy đủ và có ý nghĩa vào các lĩnh vực khác để tạo ra hiệu quả rõ rệt cho nền kinh tế. Theo bà Ritsu Nacken, hiện Việt Nam đang trong thời kỳ “dân số vàng”. Để tận dụng được cơ hội phát triển của giai đoạn “dân số vàng”, cần có chính sách hỗ trợ cho thanh niên, trong đó chú trọng đến các điều kiện tiếp cận với chính sách hỗ trợ sinh sản.

Từ năm 2011 tới nay, Việt Nam đã bắt đầu có chuyển hướng chính sách từ kiểm soát quy mô dân số sang nâng cao chất lượng dân số với ba mục tiêu cơ bản là: Có quy mô dân số hợp lý, cân bằng giới tính khi sinh và nâng cao chất lượng dân số. Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách để tận dụng được cơ hội “dân số vàng” và thích ứng với giai đoạn “già hóa dân số”.

“Vàng trong dân số không tự nhiên chuyển thành lợi tức cho nền kinh tế. Những thay đổi sâu sắc trong dân số yêu cầu Việt Nam chuyển hướng trọng tâm Chính sách dân số từ “kiểm soát quy mô dân số” sang hướng tiếp cận toàn diện “dân số và phát triển”. Và kinh nghiệm của các quốc gia khác cho thấy, đây là thời điểm chúng ta cần đầu tư cho thanh, thiếu niên, nếu không muốn đánh mất cơ hội này”, bà Ritsu Nacken Quyền Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam chia sẻ.

Trong năm 2015 và những năm tiếp theo, UNFPA tiếp tục hỗ trợ và phối hợp với Việt Nam triển khai các hoạt động: Chăm sóc sức khỏe sinh sản; An sinh xã hội cho người cao tuổi, “già hóa dân số”, giảm nghèo bền vững; Xây dựng chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu về sức khỏe sinh sản và tránh thai; Xây dựng hệ thống an sinh xã hội thích ứng sự chuyển đổi nhân khẩu học; Chính sách đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… Xây dựng các chính sách và chương trình về xóa đói giảm nghèo, về biến đổi khí hậu và đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi.

Hạnh An/Báo Gia đình & Xã hội