GiadinhNet – Ngày 25/10/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới (dưới đây gọi tắt là Nghị quyết số 21-NQ/TW). Tổng cục Dân số nhận thức rõ vận hội và thách thức, sáng tạo trong quá trình thực hiện các giải pháp nhằm quán triệt phương hướng và đạt được các mục tiêu do Nghị quyết 21-NQ/TW đề ra là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Th.S Nguyễn Doãn Tú – Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số. Ảnh: C. Cường
Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển là yêu cầu tất yếu
Chính sách dân số với mục tiêu giảm mức sinh của nước ta thường được gọi là chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) bắt đầu từ Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ “về việc sinh đẻ có hướng dẫn”. Từ đó đến nay, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân số luôn luôn nhấn mạnh mục tiêu giảm sinh, khống chế sự gia tăng dân số quá nhanh.
Đặc biệt, tháng 1/1993, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết riêng về chính sách DS-KHHGĐ với mục tiêu duy nhất là: “Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình (một cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ XXI”. Triển khai Nghị quyết này với bộ máy tổ chức được tăng cường, nguồn lực được bổ sung, nhất là việc cụ thể hóa Nghị quyết thông qua Chiến lược, Chương trình, Dự án, công tác dân số của nước ta đã thu được kết quả vượt cả mục tiêu đề ra (trước đó, cả 3 kỳ Đại hội IV, V, VI mục tiêu dân số đều không đạt được). Nếu những năm 1965-1969, tính đến hết độ tuổi sinh đẻ, trung bình mỗi phụ nữ có khoảng gần 7 con thì từ năm 2005 đến nay, chỉ tiêu này chỉ “dao động” xoay quanh 2,0 con/phụ nữ. Mô hình “gia đình 2 con” đang trở nên phổ biến. Mục tiêu mà chính sách DS-KHHGĐ theo đuổi suốt nửa thế kỷ qua đã đạt được. Ghi nhận thành công của Chương trình DS-KHHGĐ của nước ta, năm 1999 Liên Hợp Quốc đã tặng Giải thưởng Dân số cho Việt Nam.
Thành công của chính sách DS-KHHGĐ đã hạn chế được bùng nổ dân số; hình thành cơ cấu dân số “vàng”; chất lượng dân số được nâng lên… và qua đó tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường của nước ta. Tuy nhiên, thành tựu lớn cũng sinh ra những thách thức mới: Mức sinh rất khác biệt giữa các vùng, các tỉnh, thành phố; mất cân bằng giới tính ở trẻ em đã ở mức nghiêm trọng; di dân diễn ra mạnh mẽ và Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số.
Việc đạt được mục tiêu “bình quân trong toàn xã hội, mỗi cặp vợ chồng có 2 con”, việc xuất hiện những xu hướng dân số mới như trên, đặt ra câu hỏi: Chính sách Dân số của nước ta hơn nửa thế kỷ qua đặt KHHGĐ là trọng tâm, liệu có còn thích hợp? Và nếu cần thay đổi thì phải thay đổi như thế nào? Giải đáp những câu hỏi này, trên cơ sở nhận thức đầy đủ và sâu sắc những xu hướng mới của dân số cũng như tác động to lớn của những xu hướng này đến sự phát triển bền vững của đất nước, Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới. Nghị quyết nêu 5 quan điểm làm nền tảng cho công tác dân số hiện nay, đặc biệt là chỉ rõ phương hướng: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.
Nghị quyết đã cụ thể hóa việc chuyển “trọng tâm” này thông qua việc đề ra 6 nhóm mục tiêu, bao gồm 23 chỉ tiêu nhằm tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức do tình hình dân số mang lại. Đây là chủ trương lớn của Đảng đối với công tác dân số của nước nhà.
Mục tiêu toàn diện, thách thức lớn lao
Chăm sóc thế hệ mầm non là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng dân số. Ảnh: Chí Cường
Như đã nói ở trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) năm 1993 về chính sách DS-KHHGĐ chỉ đặt ra mục tiêu duy nhất là: “Mỗi gia đình chỉ có một hoặc 2 con”. Trong khi đó, Nghị quyết số 21-NQ/TW đề ra hệ thống 6 mục tiêu toàn diện bao trùm các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số với 23 chỉ tiêu cụ thể. Có thể thấy rằng hệ thống mục tiêu và chỉ tiêu của Nghị quyết 21-NQ/TW rất rộng và rất cao. Phát biểu tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), khi đề cập công tác dân số, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đây là vấn đề rất lớn và khó”.
Dưới đây xin trình bày những cơ hội và thách thức trong việc thực hiện 6 nhóm mục tiêu do Nghị quyết số 21-NQ/TW đề ra
Duy trì mức sinh thay thế: Thành tựu đạt được và duy trì mức sinh thay thế tính trên phạm vi cả nước trong nhiều năm nay là rất to lớn. Tuy nhiên, thách thức hiện nay là chênh lệch mức sinh giữa các khu vực, các vùng khá lớn. Trong khi mức sinh ở khu vực thành thị, vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long giảm sâu dưới mức “2 con” thì mức sinh ở khu vực Tây Nguyên, miền núi và Trung du phía Bắc, Bắc Trung bộ vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra, có tỉnh bình quân mỗi cặp vợ chồng vẫn sinh trên 3 con! Rút ngắn khác biệt về mức sinh tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách phát triển và chất lượng cuộc sống của nhân dân giữa các khu vực này. Vì vậy, Đảng ta chủ trương vận động “Tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”.
Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy, mức sinh quá thấp (dưới 2 con) kéo dài là thách thức lớn đối với phát triển bền vững và nâng cao mức sinh còn khó khăn, tốn kém hơn cả giảm sinh. Bên cạnh đó, những khu vực có mức sinh cao, như: Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ lại là những khu vực có trình độ phát triển chưa cao, những địa bàn khó khăn nhất trong cuộc vận động giảm sinh từ trước đến nay.
Vì vậy, xây dựng các giải pháp phù hợp với từng vùng, từng tỉnh sao cho vừa đảm bảo duy trì vững chắc mức sinh thay thế, vừa tiến tới đồng đều về mức sinh trên phạm vi cả nước vừa là yêu cầu, vừa là thách thức lớn của công tác dân số hiện nay.
Đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên: Ở nước ta, mất cân bằng giới tính khi sinh được ghi nhận vào năm 2006, khi trong số trẻ em sinh ra trong năm, cứ 100 cháu gái thì tương ứng có tới 110 cháu trai. Sự mất cân bằng này đang tăng lên và đã ở mức nghiêm trọng. Năm 2016, tỉ số này lên tới 112,8/100. Nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra, đến giữa thế kỷ, dân số Việt Nam trong độ tuổi trưởng thành, nam giới sẽ nhiều hơn nữ khoảng từ 2,3 triệu đến 4,3 triệu người. Hậu quả là sự khủng hoảng về hôn nhân, phá vỡ cấu trúc gia đình, gia tăng tội phạm mua bán phụ nữ, tệ nạn mại dâm, gây bất ổn xã hội và khó khăn trên thị trường lao động…Tuy nhiên, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh chỉ tập trung ở một số khu vực mà điển hình là vùng Đồng bằng sông Hồng và đã sớm được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú ý đề cập trong chính sách, pháp luật để điều chỉnh.
Nguyên nhân của mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta là sự kết hợp giữa yếu tố văn hóa truyền thống sâu xa phải có con trai nối dõi tông đường với sự lạm dụng thành tựu công nghệ y sinh học và chuẩn mực sinh ít con đã phổ biến. Xóa bỏ tâm lý, tập quán “thâm căn cố đế” – ưa thích con trai, kiểm soát việc lạm dụng kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ lựa chọn giới tính thai nhi là rất khó khăn, chắc chắn không phải là chuyện “một sớm, một chiều”, đòi hỏi đồng bộ nhiều giải pháp, trước mắt và lâu dài; sự nỗ lực kiên trì, liên tục và mạnh mẽ của toàn xã hội.
Tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số “vàng”: Cơ cấu dân số “vàng” là tình trạng số người trong độ tuổi từ 15 đến 64 (độ tuổi có khả năng lao động) nhiều gấp 2 lần tổng số người dưới 15 tuổi (phụ thuộc trẻ) và số người từ 65 tuổi trở lên (phụ thuộc già). Nói khác đi, một dân số có cơ cấu “vàng”, khi tỉ lệ những người trong độ tuổi (15-64) chiếm 66% trở lên.
Nếu năm 1979, tỉ lệ những người trong độ tuổi (15-64) ở nước ta chỉ có 53% thì đến năm 2007 đã đạt 66% (bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu dân số “vàng”) và hiện nay, tỷ lệ này rất cao, tới xấp xỉ 70%! Hơn nữa, khoảng nửa dân số trong độ tuổi lao động là những người trẻ, dưới 34 tuổi, thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi nghề. Đây là dư lợi rất lớn của cơ cấu dân số “vàng” về số lượng lao động, mang lại cơ hội cho phát triển kinh tế và nhiều vận hội khác cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhật Bản, Hàn Quốc, Sinhgapore… có nền kinh tế “thần kỳ” trong giai đoạn cơ cấu dân số “vàng”.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, cơ cấu dân số “vàng” mới chỉ là tỷ lệ và số lượng “dân số trong độ tuổi hoạt động kinh tế” lớn, mới mang lại “khả năng”, “cơ hội” chứ chưa phải là đã trực tiếp có ngay kết quả cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tận dụng cơ hội cơ cấu dân số “vàng” còn phải đảm bảo: Thứ nhất, là những người trong “độ tuổi hoạt động kinh tế” có khả năng làm việc. Rõ ràng, nếu trong độ tuổi này nhưng ốm đau, bệnh tật, không có khả năng lao động thì cũng không tác động tích cực cho phát triển, thậm chí ngược lại; Thứ hai, những người “có khả năng làm việc” phải có việc làm. Hiển nhiên, những người “có khả năng làm việc” song thất nghiệp hoặc có việc làm không đầy đủ sẽ tác động tiêu cực đến phát triển; Thứ ba, “những người có việc làm” phải làm việc với năng suất, thu nhập cao. Nếu có việc làm nhưng năng suất, thu nhập thấp, đất nước cũng không tránh được “bẫy thu nhập trung bình”, mức sống nhân dân cũng khó cải thiện.
Mỏ vàng không khai thác thì còn, cơ cấu dân số “vàng” không khai thác thì sẽ mất (vào khoảng năm 2040). Vì vậy, cần khẩn trương tận dụng cơ hội quý hiếm này để phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Thích ứng với già hóa dân số: Năm 2011, dân số 60 tuổi trở lên của nước ta là 10%, nghĩa là Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già hoá. Theo dự báo, Việt Nam sẽ có “dân số già” vào năm 2035, khi tỉ lệ này tăng lên tới 20% với khoảng 21 triệu người cao tuổi. Già hóa dân số là biểu hiện của thành tựu phát triển kinh tế, xã hội kết quả là tăng nhanh tuổi thọ bình quân và thành tựu giảm sinh – hiệu quả của chương trình kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, thế hệ người cao tuổi hiện nay trải qua nhiều năm chiến tranh và nghèo khó nên già hóa dân số cũng đặt ra nhiều vấn đề như: An sinh xã hội, thu nhập, chăm sóc sức khỏe, việc làm cho người cao tuổi, xây dựng môi trường xã hội thân thiện với người cao tuổi;… Vì vậy, “thích ứng với già hóa dân số” là một thách thức lớn hiện nay, nhất là trong điều kiện Việt Nam già hóa nhanh. Thời gian để người cao tuổi tăng từ 10% lên 20%, ở Pháp mất 115 năm, Thụy Điển 85 năm, Mỹ 69 năm còn Việt Nam chỉ hơn 20 năm!
Phân bổ dân số hợp lý và quản lý dân cư: Năm 2017, tỷ lệ dân đô thị của thế giới là 54,3%, trong khi đó, Việt Nam mới chỉ đạt 35%! Tuy nhiên, công nghiệp hóa và kinh tế thị trường đang thúc đẩy di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Từ 2004 đến 2009, gần 7 triệu người di cư, tăng 50% so với giai đoạn 1994-1999 góp phần làm tăng tỷ lệ dân đô thị trong khoảng 15 năm trở lại đây và đẩy mạnh xu hướng tập trung dân số vào một số thành phố, vùng lãnh thổ. Chẳng hạn, Đông Nam Bộ, năm 1979 chỉ có 7 triệu người, chiếm 7,5% dân số cả nước thì nay, các con số tương ứng là gần 17 triệu dân và 17,9%!
Di dân góp phần thay đổi cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất lao động – yêu cầu cao nhất của Việt Nam trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, di dân cũng đẩy nhanh quá trình tập trung dân số với mật độ rất cao. Nhiều quận ở Thủ đô Hà Nội và TPHCM, mật độ dân số lên tới trên 40 ngàn người/km2. Điều này dẫn tới ách tắc giao thông, quá tải trường học, bệnh viện, ô nhiễm môi trường…. Ngoài ra, mật độ dân số quá cao còn làm việc giải phóng mặt bằng phục vụ xây dựng hạ tầng kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, chậm chạp và đắt đỏ. Ngược lại, những địa phương xuất cư mạnh cũng có những thách thức về chăm sóc người già, trẻ em và cả những thách thức về sử dụng không hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật, xã hội đã có.
Rõ ràng, tạo điều kiện thông thoáng cho dòng di cư diễn ra trôi chảy, đồng thời định hướng, điều hòa để phân bố dân số hợp lý trên phương diện kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng vừa là yêu cầu, vừa là thách thức hiện nay. Bên cạnh đó, những biến đổi dân số diễn ra mạnh mẽ, nhanh chóng nên cần xây dựng cần hệ thống thông tin quản lý dân cư phù hợp, linh hoạt, cập nhật và chính xác.
Nâng cao chất lượng dân số: Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số. Quá trình phát triển của lịch sử hiện đại, đặc biệt là trong thời đại 4.0 cho thấy chất lượng dân số là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
Nhờ những thành tựu phát triển kinh tế, xã hội, chất lượng dân số của nước ta không ngừng được nâng lên. Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI) – một trong những chỉ báo về chất lượng dân số của nước ta đã tăng từ 0,486 năm 1992 lên 0,683 vào năm 2016. Tuy nhiên, so với thế giới, thứ hạng vẫn còn thấp. Nếu năm 1992, HDI của Việt Nam xếp thứ 120 trong 174 nước so sánh thì năm 2015 vẫn xếp thứ 115 trong số 188 nước so sánh! Chưa bao giờ Việt Nam lọt vào tốp 100 nước phát triển nhất, chưa rút ngắn được khoảng cách so với các nước trên thế giới. Trong đó, năng suất lao động vẫn là thành tố yếu nhất khi nói đến chất lượng dân số. Điều này cho thấy những thách thức lớn lao trong việc đạt được mục tiêu “nâng cao chất lượng dân số”.
Nhiều năm nay, Tổng cục DS-KHHGĐ thực hiện các dự án nâng cao chất lượng dân số ngay trong giai đoạn đầu đời, như: Tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân; tầm soát bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đã thu được những kết quả tốt nhưng vẫn chỉ mới trong khuôn khổ các dự án.
Một số nhiệm vụ cấp bách trước mắt
Công tác dân số cần được sợ quan tâm thiết thực của toàn xã hội. Ảnh: Chí cường
Để thực hiện thành công Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, để đạt được những mục tiêu đề ra, cần triển khai đồng bộ hệ thống 7 giải pháp mà Nghị quyết đã xác định, bao gồm các giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo; truyền thông thay đổi hành vi; xây dựng pháp luật và chính sách; củng cố và phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ; đầu tư và quản lý tài chính; củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy và hợp tác quốc tế. Trước mắt phải tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Quán triệt những nội dung Nghị quyết 21-NQ/TW: Sau khi Nghị quyết được ban hành, việc tổ chức học tập, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết đã được triển khai. Tuy nhiên, hơn 50 năm thực hiện công tác dân số với trọng tâm là kế hoạch hóa gia đình, nhiều người đã định hình nhận thức rằng, công tác dân số chỉ là giảm sinh nên đã có những biểu hiện coi nhẹ, buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo sau khi đã đạt được mục tiêu “mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2 con”. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, tuyên truyền, quán triệt sâu sắc hơn nữa nội dung Nghị quyết. Cần nhận thức rõ “tình hình mới” của công tác dân số không chỉ ở Trung ương mà còn ở từng địa phương; không chỉ là những xu hướng mới của dân số mà còn là điều kiện mới về kinh tế, xã hội, pháp luật, kỹ thuật… Đặc biệt, cần nắm chắc hệ thống 6 mục tiêu tổng quát và 23 chỉ tiêu cụ thể của chính sách dân số mới. Những mục tiêu này bao trùm cả quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số nên rộng lớn hơn rất nhiều so với mục tiêu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương, khóa VII năm 1993 (chỉ có 01 mục tiêu). Những mục tiêu này cũng chính là cụ thể hóa bước chuyển trọng tâm chính sách dân số “từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển”. Tuy nhiên, tình hình dân số, đặc điểm kinh tế xã hội ở các vùng, các tỉnh có nhiều điểm khác nhau. Vì vậy, mỗi địa phương cần sắp xếp thứ tự ưu tiên trong việc thực hiện mục tiêu và vận dụng sáng tạo 7 giải pháp mà Nghị quyết 21-NQ/TW đề ra để đạt được các mục tiêu này.
Quán triệt Nghị quyết trong mối liên hệ sâu sắc với địa phương nhằm thống nhất nhận thức, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội về ý nghĩa và ý chí chuyển hướng chiến lược trong công tác này.
Khẩn trương xây dựng và ban hành chiến lược, pháp luật và chính sách dân số cho giai đoạn mới: Ngày 31/12/2017, Chính phủ đã có Nghị quyết số 137/NQ-CP về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới (dưới đây gọi tắt là Nghị quyết 137/NQ-CP). Nghị quyết 137/NQ-CP xác định 42 đề án cần được xây dựng, ban hành cho đến năm 2020; trong đó, 7 đề án cần được xây dựng hoàn thành trong năm 2018. Đây là chương trình cụ thể hóa Nghị quyết 21-NQ/TW và đưa Nghị quyết này vào cuộc sống. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có đề án nào có khả năng hoàn thành đúng thời hạn.
Các đề án cần được xây dựng và ban hành đã được Chính phủ xem xét kỹ, sắp xếp theo lộ trình chặt chẽ. Đặc biệt những đề án phải hoàn thành trong năm 2018 đều hết sức quan trọng, có tính chất định hướng, hình thành khung chính sách chủ yếu cho công tác dân số trong giai đoạn tới. Việc chậm trễ trong xây dựng và ban hành các đề án ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, kéo dài tình trạng lúng túng, mất phương hướng trong công tác dân số ở một số địa phương. Do đó, cần khẩn trương huy động lực lượng, các chuyên gia, các nhà quản lý có kinh nghiệm nỗ lực xây dựng và hoàn thành đúng hạn các đề án này.
Tăng cường đầu tư nguồn lực và xây dựng cơ chế quản lý có hiệu quả việc sử dụng kinh phí đầu tư cho công tác dân số: Kinh nghiệm triển khai công tác dân số ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng cho thấy, lĩnh vực dân số ít hấp dẫn đối với đầu tư tư nhân. Do vậy, kinh phí đầu tư cho công tác dân số chủ yếu do ngân sách nhà nước đảm bảo và người sử dụng phương tiện, dịch vụ chi trả.
Một trong những bài học thành công của công tác DS-KHHGĐ ở nước ta thời gian qua là tăng đầu tư kinh phí đồng thời thực hiện quản lý theo chương trình mục tiêu, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư. Trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, trong bối cảnh ngân sách Nhà nước còn eo hẹp, Chính phủ đã đầu tư cho công tác này bình quân 0,6 USD/người/năm. Thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW, với mục tiêu, nội dung công tác dân số đã được mở rộng rất nhiều, quy mô dân số đã đạt đến gần 100 triệu người nhưng kinh phí đầu tư từ ngân sách Trung ương lại thu hẹp đáng kể, chỉ còn 40% so với mức đầu tư bình quân hàng năm trong giai đoạn giai đoạn 2011-2015! Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao. Chỉ tính riêng việc tránh được 11,5 triệu ca sinh so với dự kiến kế hoạch vào năm 2015 đã góp vào thu nhập bình quân của mỗi người dân Việt Nam tăng thêm 10,9%. Do vậy, cần sớm đẩy nhanh nghiên cứu, tính toán đầy đủ nhu cầu đầu tư cho công tác dân số với nội dung đã được xác định rõ trong Nghị quyết 21-NQ/TW, phân chia theo các nguồn để trình cấp có thẩm quyền quyết định mức đầu tư cụ thể cho công tác này những năm tới.
Củng cố tổ chức bộ máy làm công tác dân số đủ năng lực quản lý, điều hành: Lịch sử công tác DS-KHHGĐ ở nước ta gần 60 năm qua với nhiều lần thay đổi mô hình tổ chức bộ máy quản lý cho thấy, tổ chức bộ máy là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định kết quả của công tác này.
Công tác dân số trong tình hình mới được khởi đầu với việc thay đổi lớn về tổ chức bộ máy. Đó là việc sáp nhập Trung tâm DS-KHHGĐ quận/huyện vào Trung tâm y tế đa chức năng. Điều này gây nên tư tưởng dao động, không yên tâm công tác, làm việc trễ nải của nhiều cán bộ DS-KHHGĐ quận/huyện là điều dễ hiểu. Vì vậy, cần làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ dân số các cấp, cần quán triệt các Nghị quyết 18-NQ/TW và Nghị quyết 19-NQ/TW của Hội nghi lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương (khóa XII). Ở những địa phương đã tiến hành sáp nhập, cần sớm ổn định tổ chức; chú trọng khai thác những điểm mạnh, những điểm tích cực và những điểm hợp lý của mô hình này để công việc bớt trung gian, trôi chảy hơn, hiệu quả hơn. Những địa phương chưa hợp nhất cần cân nhắc kỹ để lựa chọn thời điểm hợp nhất theo nghĩa bảo đảm hiệu quả tối đa cho việc thực hiện chính sách dân số mới.
Chuyển trọng tâm chính sách dân số “từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển” đòi hỏi công tác dân số phải cập nhật, phải tính đến các yếu tố “phát triển”. Ngược lại, các kế hoạch phát triển cũng cần tính đến sự biến đổi nhanh về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số. Điều này gợi ý các Ban chỉ đạo DS-KHHGĐ các cấp hiện nay có thể chuyển đổi thành Ban chỉ đạo dân số và phát triển phù hợp với tinh thần chuyển trọng tâm chính sách dân số mà Nghị quyết 21-NQ/TW đề ra.
Nghị quyết số 137/NQ-CP cũng nêu rõ phải xây dựng đề án tổ chức bộ máy làm công tác DS- KHHGĐ trình Chính phủ ban hành. Xúc tiến nghiên cứu, đánh giá tổng kết kinh nghiệm, xây dựng mô hình, tổ chức bộ máy hoàn chỉnh; trên cơ sở đó sắp xếp, củng cố tổ chức bộ máy làm công tác dân số cho phù hợp với yêu cầu triển khai công tác trong tình hình mới là một trong những việc cấp bách hiện nay.
Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới là một chủ trương lớn của Đảng ta. Quán triệt đầy đủ Nghị quyết này cần có sự đổi mới tư duy, thực hiện đầy đủ Nghị quyết này cần vượt qua nhiều khó khăn và thách thức nhưng với kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ làm công tác DS-KHHGĐ, đặc biệt là kinh nghiệm 25 năm thực hiện thành công Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) chúng ta tin tưởng rằng, Nghị quyết số 21-NQ/TW sẽ được thực hiện thắng lợi, các mục tiêu mà Nghị quyết đề ra sẽ đạt được, góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Quan điểm số 2 của Nghị quyết số 21-NQ/TW xác định phương hướng của công tác dân số trong tình hình mới là: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.
Th.s Nguyễn Doãn Tú – Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số