GiadinhNet – Dự báo đến năm 2050 sẽ có 1,2 tỷ người trên 60 tuổi sống ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, tương đương 2/3 số nam giới và phụ nữ cao tuổi trên toàn thế giới. Điều này sẽ tác động lớn đến nền kinh tế của các nước khi phải đối mặt với việc giảm sút đáng kể số người trong độ tuổi lao động và gia tăng số người cao tuổi (NCT). Đây là vấn đề chính được đưa ra thảo luận tại Hội thảo khu vực châu Á – Thái Bình Dương 2016 với chủ đề “Những tác động kinh tế của già hóa”, diễn ra tại Hà Nội từ ngày 6 – 7/9 vừa qua.
Việt Nam sẽ có thêm 10 triệu NCT
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ LĐ,TB&XH cho biết, các nước trên thế giới phải trải qua nhiều thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ nhưng Việt Nam chỉ mất 15 năm để chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang giai đoạn dân số già. Hiện nay, tỷ lệ NCT của Việt Nam là trên 10,5% và khoảng 50 năm nữa Việt Nam sẽ có thêm 10 triệu NCT.
Trong đó, năm 2014 có 3,2% NCT và 16,4% những người trên 80 tuổi đang sống một mình. Con số này dự kiến sẽ tăng lên trong tương lai do tốc độ già hóa dân số nhanh chóng, làn sóng di cư của những người trẻ tuổi ngày một tăng và số các cặp vợ chồng sống chung với các thế hệ trước giảm đi. Những NCT sống ở vùng nông thôn hay phụ nữ là những người dễ rơi vào tình trạng sống một mình. Thực trạng này có thể làm trầm trọng thêm những khó khăn mà các nhóm này đang phải gánh chịu.
Số liệu thống kê năm 2014 cho thấy, phụ nữ chiếm 59% số lượng NCT của Việt Nam. Do phụ nữ thường sống lâu hơn nam giới, dự báo trong tương lai, phụ nữ vẫn chiếm số đông trong dân số NCT. Xu hướng nữ hóa dân số cao tuổi diễn ra ở tất cả các nhóm tuổi nhưng nổi bật nhất ở nhóm từ 80 tuổi trở lên. Đây là độ tuổi dễ tổn thương nhất.
Theo GS.TS Phạm Thắng, Giám đốc Bệnh viện Lão khoa Trung ương, một NCT trung bình mắc 6,9 bệnh, trong đó chủ yếu là bệnh mạn tính như: Đái tháo đường, tăng huyết áp, thoái hóa khớp, ung thư, đột quỵ… cần nhiều thời gian điều trị hay thậm chí phải điều trị suốt đời. Mặt khác, NCT sử dụng đến 50% tổng lượng thuốc, do đó, chi phí y tế cho người già cao gấp 7 – 10 lần so với người trẻ tuổi. Tuy nhiên, khả năng cung cấp dịch vụ y tế cho NCT còn nhiều hạn chế, như thiếu các cơ sở y tế (bệnh viện, nhà dưỡng lão, trạm y tế…) và nguồn nhân lực chăm sóc NCT.
Trong đó, có rất nhiều các yếu tố khác nhau khiến phụ nữ dễ bị tổn thương hơn nam giới khi về già. Theo nghiên cứu của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, phụ nữ có khả năng mắc các bệnh mạn tính cao hơn và dễ rơi vào cảnh nghèo khó, bấp bênh hơn nam giới. Trong điều kiện đó, phụ nữ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc chi trả cho các dịch vụ chăm sóc y tế cần thiết. Ngoài ra, phụ nữ nghỉ hưu sớm hơn nhưng sống lâu hơn nam giới, khiến họ dễ bị rơi vào cảnh góa bụa và lương hưu (nếu có) cũng không đủ chi trả cho nhu cầu.
Mặt khác, các nhu cầu về chăm sóc sức khỏe cả về vật chất và tinh thần của một cá nhân khó có thể được đáp ứng khi sống một mình. Do đó, các chương trình phúc lợi xã hội, chính sách lao động và chăm sóc sức khỏe cho NCT cần được thiết kế phù hợp về giới để đảm bảo công bằng cho phụ nữ.
Đề án nhân văn của ngành Dân số
Để thích ứng với xu hướng già hóa dân số, ông Nguyễn Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) cho biết: Cần xây dựng hệ thống lão khoa trên toàn quốc nhằm bắt kịp sự biến đổi nhân khẩu học và đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng lớn của NCT, bao gồm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, đội ngũ y bác sĩ lão khoa; xây dựng các mô hình chăm sóc tại gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn vay của NCT để NCT đầu tư sản xuất, kinh doanh, đồng thời xem xét lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu nhằm phát huy vai trò của NCT, nhất là NCT có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, năng lực quản lý tốt.
Thực tế cho thấy, hệ thống cơ sở chăm sóc sức khỏe NCT bước đầu được hình thành và phát triển từ Trung ương cho tới địa phương. Nhiều mô hình chăm sóc NCT dựa vào cộng đồng được nhân rộng. Tuy nhiên, việc tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng trong chăm sóc sức khỏe NCT còn hạn chế, như việc cung cấp các dịch vụ chuyên về lão khoa chưa nhiều (hiện có 49/63 bệnh viện tỉnh/thành phố có khoa lão); các mô hình chăm sóc NCT ngắn hạn, trung hạn và dài hạn chưa thực sự phát huy hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó số lượng và tỷ lệ NCT tăng nhanh đang đặt ra nhiều thách thức trong công tác chăm sóc sức khỏe NCT ở Việt Nam.
Theo đó, phía Tổng cục DS-KHHGĐ đã xây dựng Đề án “Chăm sóc sức khỏe NCT giai đoạn 2016 – 2020” với các mục tiêu: Tạo môi trường xã hội đồng thuận thực hiện chăm sóc sức khỏe NCT; đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng và gia đình; nâng cao năng lực thực hiện chăm sóc sức khỏe NCT tại các cơ sở y tế trên cả nước…
Cụ thể, phấn đấu 100% NCT được khám sức khỏe định kỳ1lần/năm; lập hồ sơ theo dõi sức khỏe và khi ốm đau được hưởng chăm sóc sức khỏe của gia đình, cộng đồng; ưu tiên khi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế; cung cấp thông tin, kiến thức về hướng dẫn rèn luyện thân thể, nâng cao sức khỏe, kỹ năng phòng bệnh, chữa bệnh và tự chăm sóc sức khỏe cho NCT. Bên cạnh đó, đưa nội dung chăm sóc sức khỏe cho NCT vào nội dung trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia; hướng dẫn thành lập các cơ sở khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe cho NCT; phấn đấu 90% số bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa (trừ bệnh viện chuyên khoa nhi), bệnh viện y học cổ truyền có quy mô 50 giường bệnh kế hoạch trở lên có buồng khám bệnh riêng cho NCT, có giường bệnh điều trị nội trú cho NCT.
Mục tiêu của Đề án “Chăm sóc sức khỏe NCT giai đoạn 2016-2020”: Phấn đấu đến năm 2020: 50% số trạm y tế xã xây dựng và phát triển mạng lưới chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho NCT; 50% số xã, phường thành lập và duy trì CLB có nội dung chăm sóc sức khỏe, 70% NCT trên địa bàn được tham gia. Đặc biệt, thành lập và đưa vào hoạt động ít nhất 3 Trung tâm chăm sóc sức khỏe NCT tập trung ở 3 miền Bắc, Trung, Nam trên cả nước.
Mai Thùy