Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030: Nền móng vững chắc duy trì mức sinh thay thế trên toàn quốc

0
83

GiadinhNet – Theo các chuyên gia, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế và duy trì trong hơn 10 năm qua. Tuy nhiên, mức sinh đang có xu hướng biến động và có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền, khu vực, đòi hỏi phải có điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể kịp thời theo đặc thù từng địa phương để bảo đảm đem lại sự phát triển bền vững của đất nước.

Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030: Nền móng vững chắc duy trì mức sinh thay thế trên toàn quốc - Ảnh 1.

Thời gian tới cần tiếp tục duy trì mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng. Ảnh minh họa

Mức sinh không đồng đều giữa các vùng, khu vực

Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác dân số, nhất là trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch hóa gia đình. Trên bình diện toàn cảnh, tổng tỷ suất sinh (TFR) của Việt Nam liên tục giảm từ 6,39 con/phụ nữ năm 1960 xuống còn 2,09 con/phụ nữ năm 2006. Từ đó đến nay, Việt Nam đã đạt và duy trì được mức sinh thay thế (2,1 con/phụ nữ). Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu về dân số cũng như góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng sống của người dân.

Tuy nhiên, hiện nay, công tác dân số cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Theo kết quả cuộc Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2019 cho thấy, TFR của cả nước năm 2019 là 2,09 con. Đây là năm thứ ba liên tiếp mức sinh dưới mức sinh thay thế (năm 2017 là 2,04 con, năm 2018 là 2,05 con). Bên cạnh đó, chênh lệch mức sinh giữa các vùng miền, khu vực vẫn còn rất lớn.

Chẳng hạn, theo thống kê, trong khi vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế, thậm chí một số tỉnh, thành phố có mức sinh rất thấp như TPHCM (1,33 con/phụ nữ) thì nhiều tỉnh như Hà Tĩnh, Hà Giang, Lai Châu… mức sinh vẫn còn cao, đặc biệt là ở những địa phương miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tình trạng người dân sinh 7-8 con.

Theo các nhà nhân khẩu học, việc chênh lệch mức sinh như hiện nay đặt ra bài toán cần tiếp tục duy trì mức sinh thay thế và “thu hẹp” khoảng cách mức sinh giữa các vùng để đảm bảo mức sinh đồng đều trên cả nước. Thực tế, với mức sinh thấp như ở một số tỉnh, thành phố nêu trên, nếu không có những biện pháp can thiệp sẽ dẫn đến mức sinh giảm sâu hơn, khi đó sẽ kéo theo nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến chất lượng dân số, cơ cấu dân số và già hóa dân số nhanh chóng. Ngược lại, ở những vùng có mức sinh cao (thường là những nơi thuộc “lõi” của đói nghèo), nếu không tiếp tục cuộc vận động giảm sinh để đảm bảo ổn định cuộc sống, tập trung nuôi dạy các con cho tốt thì rất khó có thể đạt được các mục tiêu về dân số cũng như nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Trên cơ sở đó, trong Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/12/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới, đã nêu rõ: Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), đến năm 2030 quy mô dân số đạt 104 triệu người; giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế. Cùng với đó, Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 cũng nhấn mạnh việc duy trì mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, khu vực là mục tiêu quan trọng đầu tiên cần thực hiện.

Điều chỉnh mức sinh theo “đặc thù” của từng địa phương

Theo lãnh đạo Tổng cục Dân số (Bộ Y tế), để giải quyết bài toán mức sinh, trong những năm qua, ngành Dân số đã đưa ra nhiều giải pháp thiết thực và được vận dụng linh hoạt vào thực tiễn như: Đối với những nơi mức sinh đang xuống thấp, vận động người dân “sinh đủ 2 con”; đối với những nơi mức sinh cao và điều kiện kinh tế khó khăn, tiếp tục vận động giảm sinh để đưa về mức sinh thay thế. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định rằng, việc này không phải là chuyện đơn giản có thể thực hiện hiệu quả ngay trong một sớm một chiều mà cần có những giải pháp đồng bộ, hướng dẫn cụ thể đối với từng vùng, từng khu vực để tránh tình trạng người dân hiểu lầm và gây ra phản ứng ngược khiến mức sinh tăng trở lại, nhất là ở những vùng đang có mức sinh cao.

Xuất phát từ thực tế trên, ngày 28/4/2020 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 588/QĐ-TTg Phê duyệt “Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030”. Đây được coi là nền móng vững chắc trong việc thực hiện duy trì mức sinh thay thế trên toàn quốc. Đồng thời, giúp tăng mức sinh ở những địa phương đang có mức sinh thấp, giảm mức sinh ở những địa phương đang có mức sinh cao, góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Để làm được điều này, Thủ tướng yêu cầu cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền. Tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa việc chuyển hướng công tác dân số từ tập trung vào việc giảm sinh sang duy trì mức sinh thay thế. Thống nhất nhận thức trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc vận động thực hiện mỗi gia đình, cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sinh ít con ở những địa phương có mức sinh cao, duy trì kết quả ở những nơi đạt mức sinh thay thế, sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi hành vi thông qua việc tuyên truyền sâu rộng các nội dung của Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác dân số trong tình hình mới nhằm tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội về việc chuyển hướng chính sách dân số từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số bao gồm quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số; điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích. Trong đó, cần cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phù hợp với đặc điểm mức sinh của các địa phương có mức sinh khác nhau.

Cụ thể, đối với địa phương có mức sinh cao, tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích như khuyến khích các cặp vợ chồng, gia đình, tập thể, cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên; hỗ trợ người dân thực hiện dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, bao gồm phương tiện tránh thai; bồi dưỡng, hỗ trợ người thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, người vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình…

Đối với địa phương đã đạt mức sinh thay thế và có mức sinh thấp, trước mắt cần rà soát, bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh ít con. Từng bước ban hành, thực hiện các chính sách khuyến khích sinh đủ hai con áp dụng cho các gia đình, cộng đồng. Ở những địa phương đã có mức sinh dưới mức sinh thay thế cần thí điểm, mở rộng thực hiện các chính sách hỗ trợ cặp vợ chồng sinh con, nuôi dạy con; đồng thời có chính sách không khuyến khích kết hôn muộn, sinh con muộn và sinh ít con…

Mục tiêu của Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 nêu rõ: Phấn đấu đến năm 2030, tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dưới 2 con); giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có trên 2,2 con); duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có từ 2- 2,2 con).

 Mai Thùy