Chuyển trọng tâm chính sách dân số, từ KHHGĐ sang dân số và phát triển: Bước ngoặt lớn cho chính sách dân số của Việt Nam

0
199

GiadinhNet – Vừa qua, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận 119-KL/TW, trong đó có nội dung quan trọng là đề nghị Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII xem xét, ban hành Nghị quyết về dân số, chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển. Theo GS Nguyễn Đình Cử – nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội (Trường ĐH Kinh tế Quốc dân), việc chuyển đổi này là hoàn toàn cần thiết, nó làm cho chính sách dân số phù hợp với tình hình dân số thực tế và hiệu quả hơn.

Để thực hiện chính sách dân số mới với mục tiêu mới, cần có một bộ máy tổ chức thích hợp với chức năng, nhiệm vụ mới. Ảnh: Dương Ngọc
Để thực hiện chính sách dân số mới với mục tiêu mới, cần có một bộ máy tổ chức thích hợp với chức năng, nhiệm vụ mới. Ảnh: Dương Ngọc

Cơ hội và thách thức lớn

Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhờ làm tốt công tác DS-KHHGĐ, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thực tế, sau thời điểm ban hành Nghị quyết số 47-NQ/TW (năm 2005) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ, tình trạng dân số nước ta đến nay đã thay đổi rất căn bản: Chúng ta đạt mức sinh thay thế, đang bước vào quá trình già hóa, đồng thời bước vào giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Bên cạnh đó, tình trạng di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh diễn biến phức tạp… đang có những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại cả cơ hội và thách thức.

Kết luận số 119-KL/TW đã đề cập những xu hướng dân số mới của nước ta như xu hướng “mất cân bằng giới tính khi sinh” đang tăng lên: Năm 2009, cứ 100 bé gái được sinh ra thì trung bình tương ứng có 110,6 bé trai; năm 2014, con số này đã tăng lên 112,2. Nếu xu hướng này tiếp tục tăng sẽ gây hệ lụy cho cơ cấu dân số xã hội nghiêm trọng.

Từ năm 2006, Việt Nam đã bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng, theo nghĩa, cứ hai người trong độ tuổi hoạt động kinh tế thì chỉ có một người phụ thuộc. Vấn đề là làm thế nào để tận dụng cơ hội “vàng” này để phát triển đất nước đang là câu hỏi cấp thiết, vì chúng ta đã đi hết 1/3 chặng đường của giai đoạn này. Bên cạnh cơ cấu dân số vàng thì năm 2012, tỷ lệ người cao tuổi ở nước ta đạt 10,2%, tức là đã bắt đầu bước vào quá trình già hóa. Thời gian để người cao tuổi tăng từ 10% lên 20% (dân số già), ở Pháp mất 115 năm, Trung Quốc 25 năm, nhưng Việt Nam chỉ khoảng 20 năm. Rất nhiều vấn đề kinh tế, xã hội đặt ra khi dân số già hóa.

Cùng với quá trình công nghiệp hóa, di cư diễn ra ngày càng sôi động, dân số đang tích tụ nhanh vào một số thành phố và khu vực, vừa tạo động lực phát triển, đồng thời cũng gây ra nhiều thách thức. Việc điều chỉnh phân bổ dân số hợp lý và chính sách đối với người di cư cũng trở nên cấp bách.

Một vấn đề rất quan trọng là trong nhiều năm qua, chất lượng dân số nước ta không ngừng được nâng lên nhưng chưa cao. Năm 2013, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam mới đạt 0,638 điểm, mức trung bình và xếp thứ 121/187 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Những vấn đề dân số nói trên đang và sẽ mang lại không những cơ hội mà cả thách thức lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước. Ngược lại, quá trình phát triển kinh tế, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế cũng tác động lớn đến dân số nước ta cả quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số. Do vậy, theo GS Nguyễn Đình Cử, việc phải có định hướng cho chính sách dân số mới như Kết luận 119 vừa đưa ra là hoàn toàn cần thiết.

Cần sớm có Nghị quyết về chính sách dân số

Tại Kết luận 119 của Ban Bí thư đã có hai điểm rất mới. Thứ nhất, mục tiêu về mức sinh phân biệt theo địa phương. Chính sách DS-KHHGĐ của Việt Nam bắt đầu từ năm 1961 bằng Quyết định 216/CP của Hội đồng Chính phủ về việc sinh đẻ có hướng dẫn. Vào thời điểm đó, mức sinh của cả nước cũng như từng địa phương đều rất cao. Vì vậy, giảm sinh là mục tiêu cốt lõi và thống nhất trong cả nước, không phân biệt vùng miền. Điều đó là hợp lý. Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đồng đều nên kết quả thực hiện chính sách DS-KHHGĐ ở các địa phương rất khác nhau, dẫn đến mức sinh hiện nay cũng rất khác nhau. Vì vậy, ngày nay, mục tiêu về mức sinh phải phân biệt theo địa phương. Kết luận số 119-KL/TW chỉ rõ: “Giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”. Thứ hai, chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển. Kết luận số 119-KL/TW khẳng định: “Việt Nam đã sớm đạt được và duy trì vững chắc mức sinh thay thế”, do đó “cần chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển”. “Thực hiện điều này thực sự là một bước ngoặt lớn cho chính sách dân số của Việt Nam, kể từ năm 1961, tức là đã đến lúc thay đổi căn bản quan điểm, mục tiêu, nội dung và giải pháp của chính sách dân số”, GS Nguyễn Đình Cử nhấn mạnh.

Theo ông Nguyễn Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS-KHHGĐ, trong giai đoạn 2016 – 2020, công tác dân số cần tập trung giải quyết một số vấn đề chính, như duy trì mức sinh thấp hợp lý đối với những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế, đặc biệt tại những nơi có mức sinh thấp. Đồng thời, đẩy mạnh việc giảm sinh trên những địa bàn còn ở mức cao; khống chế có hiệu quả tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỷ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên; chú trọng việc chăm sóc SKSS tránh mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên; tăng cường sàng sọc trước sinh, sơ sinh… góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam, thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển bền vững đất nước; tận dụng lợi thế “cơ cấu dân số vàng” để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi để góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Theo GS Nguyễn Đình Cử, để thực hiện chính sách dân số mới với mục tiêu mới, nội dung mới trọng tâm là dân số và phát triển, cần có một bộ máy tổ chức thích hợp, với chức năng, nhiệm vụ mới. Điều này không chỉ liên quan đến hệ thống bộ máy tổ chức DS-KHHGĐ hiện nay mà cả những cơ quan, đơn vị hiện có, đang có chức năng, nhiệm vụ điều phối một nội dung, thành phần nào đó của mối quan hệ dân số và phát triển. Vì vậy, theo GS Nguyễn Đình Cử, ngay từ bây giờ các nhà quản lý và các nhà khoa học phải tư duy nghiên cứu về vấn đề này.

“Tôi cũng rất mong chúng ta sớm có Nghị quyết về chính sách dân số mới, mà trọng tâm xoay quanh mối quan hệ mật thiết giữa dân số và phát triển, soi sáng phương hướng giải quyết các vấn đề về dân số có lợi nhất cho sự phát triển bền vững của đất nước”, GS Nguyễn Đình Cử nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS- KHHGĐ cho biết: “Giai đoạn 2016 – 2020 không còn Chương trình mục tiêu Quốc gia DS-KHHGĐ. Vì vậy, ngành Dân số cần phải kết cấu lại các dự án trong chương trình để phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 2016 sẽ là thời điểm quan trọng của đội ngũ cán bộ dân số trong việc xây dựng kế hoạch phát triển cụ thể trong năm 2016 nói riêng và cả giai đoạn 2016 – 2020 nói chung. Để làm được điều này, cần sự nỗ lực hợp sức của tất cả các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Chúng ta cần chủ động nắm bắt các xu thế phát triển của xã hội, tránh bị động trong thời kỳ mới”.

Hà Anh/Báo Gia đình & Xã hội